Listen

Description

Tản văn của nhà báo Ngô Bá Lục
Giọng đọc: Nhà báo Công Hân
Tranh minh họa: Họa sĩ Trần Nguyên


Hà Nội hôm qua trở lạnh. Buổi sáng ngủ dậy, nhìn ra ban công thấy lao xao gió, những bông hoa giấy cúi rạp đầu đón những cơn gió luồn vào từ khe hõm của chung cư. Trời đầy mây xám lốp xốp, bước xuống đất với tay kéo tấm cửa kính, cái lạnh ngay lập tức ùa vào, cảm giác nổi gai ốc, gió lạnh đầu mùa hoang hoải, hanh hao.Vào FB ngó phần kỷ niệm, kéo xuống một chút thì gặp bức ảnh này, cũng vào dịp tháng 10 của mấy năm trước, khi ấy ở quê đã lạnh lắm rồi. U mặc áo len, ngồi chọn từng nén hương đẹp để bó lại, chiếc khăn len đội đầu được U kéo xuống che ngang miệng, để gió lạnh không thổi vào họng, và cũng để ấm tai.Nhìn bức ảnh ấy, lại nhớ ngày xưa.Hồi mình còn nhỏ xíu, mùa đông ở quê lạnh dã man. Có thể ngày đó làng quê còn trống thoáng, không có nhà cao tầng nên gió lạnh đi băng băng quét qua muôn nơi. Nhà ai cũng chỉ lợp mái rơm, vách đất trộn rơm, giường tre không đệm mút, quần áo cũng thiếu, đa phần áo vải, lại đói ăn nữa, nên mỗi khi gió mùa đông bắc về, là cảm nhận được cái rét cắt da cắt thịt, run rẩy trong những tấm áo manh quần mỏng tang, đơn sơ.Cái khăn vắt ngang miệng như thế này, là hình ảnh quá quen thuộc đối với các bà, các cô, các chị em ở quê. Họng là bộ phận cực kỳ nhạy cảm với cái lạnh nên các bà các cô thường lấy khăn che miệng khi đi làm đồng, thậm chí ngồi ở sân nhà. Ngày xưa, cả U lẫn chị Toàn đều quấn khăn ngang mặt như thế trong những ngày đông lạnh buốt. Nhớ những lần đi làm đồng về, mình đang rửa rau lợn dưới ao, U và chị Toàn cũng xuống ao để rửa chân tay, thường U sẽ rửa tay thật sạch, rồi nhón lấy một đầu khăn tháo ra, thế là gương mặt lại hiện hữu, với ánh mắt thân thương và nụ cười toả nắng quen thuộc.Những ngày đông, Thầy thường ngồi tỉ mẩn chuốt từng nắm rơm, rồi bện lại từng con nhỏ, rồi nối với nhau thành một tấm thảm, dùng để trải giường. Mùa đông hanh khô nên giường tre thường kêu kẽo kẹt, nhưng khi Thầy trải cái ổ rơm lên đó, thì tiếng kêu giảm đi gần hết, nằm xuống êm lưng và êm cả tai, tha hồ vặn người, thậm chí anh em đùa nhau trên giường mà nó không bị kêu như trước nữa.Mùa đông ở quê ngày ấy rất xơ xác. Mùa gặt đã xong, cả cánh đồng mênh mông còn toàn gốc rạ. Những đàn gà, đàn vịt được các gia đình cho vào lồng, để lên xe ba gác rồi chở ra đồng, thả chúng ra và cả đàn toả đi khắp nơi róc rỉa những hạt thóc còn kẹt lại trong gốc dạ, hoặc những con cua non líu xíu, thậm chí cả những con châu chấu, cào cào. Sợ nhất là những cánh đồng dưới dộc xâm xấp nước, rất hay có rắn. Có lần, cả đàn gà đang lục tục róc rỉa thì bỗng chạy tán loạn, kêu chiêm chiếp, có con vừa chạy vừa bay lên khỏi mặt đất,… hoá ra chúng bị một con rắn hổ mang đuổi. Những lúc như thế, các anh lớn đi chăn trâu sẽ cầm gậy đuổi theo rắn để đánh, có lần các anh đánh được con rắn hổ mang rất to, dài hơn một mét, cái mang nó bạnh ra khi nó hù doạ mọi người nhìn rất ghê. Ngày ấy quê mình gọi con rắn hổ mang là “Xà mang bạnh”, nhìn thấy con đấy là chạy thật xa vì nghe nói nó rất độc, cắn vào có thể gây chết người. Nhiều khi đánh được con rắn to, có đứa mang về cho thầy u mang lên chợ bán. Hồi đấy Thầy mình cũng hay bắt được rắn ngoài đồng, nhưng toàn rắn nước. Rồi cả liu điu, nùng nục nữa. Nhưng liu điu, nùng nục thì toàn cho vào nồi cám lợn bồi dưỡng các chú heo, còn mỗi khi bắt được rắn, Thầy lại ngồi tỉ mẩn thịt rắn rồi băm viên. Vườn nhà mình hồi đó nhiều loại rau lắm, ngoài rau canh ra thì còn rau gia vị như lá lốt, tía tô, xương sông,… vì thế, khi bắt được rắn, Thầy thường sai mình ra vườn hái lá xương sông, có lần vườn cũng hết thì ra nhà cậu Bám để xin, nhà cậu Bám có cái dãy cây xương sông luôn xanh tốt ngay cạnh bể nước...