Gió đồng hun hút
Tản văn của nhà báo Ngô Bá Lục
Giọng đọc: Nhà báo Công Hân
Nó ngọ nguậy trong cái chăn bông hoa cà cũ rích, ấm nực. Thày hỏi khe khẽ, Lục dậy chưa? Nó oằn
oèo ngái ngủ: Rồi! Thày bỗng tỉnh táo hẳn lên, giọng thúc giục: dậy đi, xem chị
mày luộc củ xong chưa, ăn tạm mấy con rồi mang gà ra đồng chứ! Nó nằm im thít,
chả phản ứng gì. Cái hơi ấm của thày, của thằng Văn làm nó như say như nghiện,
ấm đến thế là cùng. Nghe mơ màng, loáng thoáng tiếng loạch xoạch ở dưới bếp,
chắc chị Toàn đang luộc củ, nó đoán thế, vì nghe tiếng rơm cháy lép tép, lách
nhách và mùi khói thơm ngái bay cả lên khắp nhà.
Thày bỗng vặn mình tốc chăn ra, vỗ
vào người nó một cái khá mạnh: dậy đi, còn nằm đến bao giờ? Giọng thày quyết
liệt, dứt khoát. Nó vùng dậy, hít một hơi thật sâu rồi bước qua người thằng
Văn, nhảy uỵch xuống đất. Thày cũng dậy trước đó vài khắc, đang đi ra vườn. Nó
đứng trong nhà, nhìn qua tấm mành tre xuyên qua sân, trời lem nhem sáng, bàng bạc sương. Ánh lửa
hồng bập bùng hắt lên tường bếp thật ấm áp. Nó “xoát xoát” hai bàn tay vào nhau
cho nóng lên, đoạn xoa lên mặt, hai dái tai, cổ cho ấm…. rồi lặp lại lần nữa.
Xong xuôi, nó vén mành, lò dò bước ra sân.
Cái sân gạch ẩm ướt bởi sương đêm.
Những cọng rơm rơi thành lối từ đống rơm vào bếp cũng mềm mụp vì ẩm ướt, chắc
chị Toàn phải ra rút rơm đến vài lần mà nồi củ chưa chín. Ngửa mặt lên trời,
hít thêm một hơi thật sâu, nó cảm nhận được cái lạnh chui tọt vào cổ, những hạt
sương lây rây đậu lên mặt, nó lấy tay vuốt khẽ rồi nhón chân vào bếp. Chị Toàn
đang đều tay đẩy rơm, tay kia cầm cái “que đời” , tãi rơm ra cho cháy nỏ và đều
khắp. Ngọn lửa bập bùng dưới đít xoong, có lúc cháy to quá vọt lên trên vung
tạo thành hàng rào lửa nhọn và mềm. Chị ngồi trên chiếc “chế cục” sát bếp, má
ửng đỏ. Mái tóc dài được “cột” chắc chắn bằng chiếc cặp ba lá bản to trắng tinh,
gọn gàng buông chùng xuống quét đất.
Thỉnh thoảng chị lại khe khẽ hát: “Còn duyên là duyên kẻ đón, a la đón người
đưa, hết duyên là duyên đi sớm a la sớm về trưa chứ trưa mặc lòng…”.
Òa! Nó bất thần “hù” nhẹ, bàn tay vỗ
lên lưng khiến chị Toàn giật mình “chưởi” yêu: Sư mày, làm chị hết hồn! Nó ôm
cổ chị và hỏi, củ chín chưa? Em xin mấy “con” nào! Chắc là được rồi, để chị thử
xem mềm chưa đã. Chị trả lời, cùng lúc lấy chiếc que đời nhấc cái vung ra.
Nghiêng người về phía chạn bát, chị với tay lấy cái đũa dài, nhọn rồi nhổm dậy
chọc chọc vào nồi. À, mềm mụp rồi. Nó nài nỉ, chị ơi xem có con củ Hàm long nào
không? Chị cốc nhẹ đầu nó, làm gì có củ Hàm long, toàn củ tím, mày có tìm đến
tết cũng chả có con củ Hàm long nào đâu. Nó đứng dậy, qua chạn lấy cái bát “chí
yêu”mang ra chỗ chị: Cho em 3 con
nhé! Chị Toàn lấy đũa xọc từng củ khoai lang rồi tuốt vào bát nó. Những con củ
vừa chín tới, bốc khói nghi ngút. Nó bê bát củ đi ra ngoài. Chị Toàn cũng dập
lửa, lấy cái chổi lúa quét quáy dọn dẹp rồi bước ra sân. Chiếc quần sa tanh đen
còn dính đầy những cọng rơm nhỏ, chị tất tả ra giếng múc nước để lát nữa rửa
mặt cho thằng Văn…
Loáng cái nó đã chén xong 3 con củ,
trời vẫn còn chưa sáng rõ. Tiếng gà vẫn gáy râm ran. Nó vào trong nhà mặc thêm
cái áo trấn thủ “trần trái trám” tuy không có tay nhưng ấm nực. Đây là món quà
mà chú Thục đi bộ đội Điện Biên Phủ mang về tặng thày. Nó chui đầu vào mặc rất
nhanh, xoay qua xoay lại chỉnh cho cân đối rồi khoác chiếc áo tơi ra ngoài.
Nó ra nhà ngang, với cái nón đội lên
đầu, rút cái roi tre có gắn chùm vải rách te tua ở đầu, kéo chiếc xe ba gác ra
sân, đẩy sát cửa chuồng gà. Quành qua góc vườn, ngay chân đống rơm, nó lôi hai
cái lồng gà ra xếp lên xe, rồi mở cửa chuồng, lùa đàn gà vào. Đứng chờ một lúc
thì chị Toàn từ bếp chạy ra, đưa cho nó gói cơm nắm. “Hết vừng lạc rồi, ăn tạm
muối cộ rang nhé”, chị nói nhẹ và cười duyên. Nó “vầng” khẽ, cảm thấy ấm lòng.
Chưa khi nào nó thấy chị gái mình có nụ cười đẹp và ánh mắt gần gũi đáng yêu
đến thế.