Tản văn của nhà báo Ngô Bá Lục
Giọng đọc: Công Hân
Nhà nó nằm trong một ngôi làng nhỏ
ven con sông Cầu nước hiền hoà chảy. Hai bên bờ là những bãi phù sa màu mỡ
khiến cây cối quanh năm xanh tốt. Ngôi làng mang dáng vẻ điển hình của những
làng quê đồng bằng Bắc Bộ: Có cổng làng hình bán nguyệt, ao sen bậc xây bằng
gạch, giếng đào, đường lát gạch nghiêng. Có gốc đa đầu làng xoè tán, mái đình
cong như trăng lưỡi liềm đêm cuối tháng, có một ngôi miếu cổ ngay bờ sông nghe
bảo rất linh thiêng. Người già trong làng kể rằng khi xưa có một con chim đậu
trên nóc miếu ăn quả si và nhả hạt ở đó, thế là sau đó, một cây si mọc lên
không phải từ đất mà từ mái ngói rêu phong của ngôi miếu cổ. Theo năm tháng, rễ
cây si bao trùm cả miếu, cắm xuống đất như một tấm lưới rộng bảo về ngôi miếu
mà không một cơn bão lớn nào có thể làm cho nó suy suyển.
Ngày xưa quê nó nghèo lắm. Người dân
trong làng một năm trồng hai mùa lúa và xen canh hoa màu. Mùa đông ở quê rất
lạnh, gió hun hút, những ngôi nhà xơ xác, mái rơm run rẩy không đủ che ấm cho
người. Kinh tế chỉ trông vào ruộng lúa, luống khoai… đời sống vô cùng đạm bạc.
Chính vì vậy, chỉ ba ngày Tết mới được ăn no nê những món ngon. Còn lại những
tháng ngày khác trong năm là triền miên những ngô, khoai, sắn.
Tết ở quê nó rất vui.Có lẽ cũng một phần vì nghèo khó, dân
làng làm lụng cả năm khó nhọc nên dành dụm tất cả cho Tết để mong có ba ngày ăn
no mặc ấm và tưởng nhớ tổ tiên. Chợ làng 5 ngày 2 phiên. Nhưng năm nào chợ Tết
cũng họp vào ngày 28 âm lịch, đó có lẽ là ngày vui nhất trong năm.
Chợ Tết quê vô cùng nhộn nhịp. Nông
sản bày bán la liệt. Hồi đó còn đốt pháo, tiếng tạch tạch, đì đùng của nó thúc
giục lũ trẻ con nhanh chân đến chợ. Thịt lợn ngốn mắt, cá tươi từ dưới ao, gà
trong chuồng lông mượt, ức vàng, da đỏ rất hấp dẫn. Nhưng đông nhất vẫn là
những bà hàng xén. Thôi thì đủ loại, từ quần áo, dép guốc đến cặp tóc, vòng
tay, hoa lông gà và trăm thứ linh tinh khác. Trai gái trong làng xúm xít chọn
lựa, mua những bộ quần áo may sẵn để mặc Tết, họ cười đùa, hồn nhiên và trong
trẻo.
Tụi trẻ con thì chỉ quấn lấy những
hàng bán pháo: pháo tép, pháo cối đỏ rực được cuộn tròn trong túi ni lông, có
những băng pháo dài hàng mét nhìn rất “khiêu khích” lũ trẻ. Thỉnh thoảng có đứa
trẻ đốt quả pháo tép làm cả lũ giật mình cười sảng khoái. Nhà nào cũng phải cố
mua, ít nhất là 2 bánh pháo Bình Đà.
Những bà mẹ thì tất tả với đủ thứ để
chuẩn bị cho Tết. Những cái không bao giờ thiếu là lá dong, lá chít để gói bánh
chưng, ống giang để chẻ lạt buộc bánh, mo cau để gói giò, hai cây mía để thờ,
một con gà cúng Tất niên. Trong cái thúng kẹp nách đi chợ, bao giờ cũng có rau
húng, rau thơm, xà lách, ớt tươi và vài quả chanh để bữa trưa ăn… lòng lợn.
Quê nó có tục lệ thịt lợn vào sáng 29
Tết. Nhà nào giàu mà nuôi được lợn thì ăn cả con, nhà nào nghèo hơn thì chung
nhau, mỗi nhà một “chân” nhưng ít nhất thì cũng phải từ hơn 10 cân trở lên để
đủ dùng 3 ngày Tết.
Từ sáng sớm, tiếng lợn kêu ụt éc râm
ran khắp xóm làng. Trẻ con cũng háo hức thức dậy cùng người lớn, chúng chạy
loanh quanh xem chọc tiết, làm lòng và thế nào cũng nài xin được cái bong bóng
để thổi nghịch chơi. Tiết được hãm để làm dồi và đánh tiết canh. Thịt được làm
sạch sẽ, “pha” ra nong và sau đó phân ra từng loại: xương, nạc, mỡ… để dùng vào
các món chế biến. Công đoạn quan trọng nhất của buổi giết lợn là… giã giò. Thịt
nạc được thái nhỏ, cho vào cối đá và lúc nào cũng có hai thanh niên khoẻ mạnh
giã tay, mỗi người một chày nhịp nhàng. Khoảng 10 giờ sáng, tiếng giã giò chí
chốp nghe thật vui tai. Giò gói bằng những chiếc mo cau trắng nõn được ngâm, cọ
rửa, phơi phóng…. rất cầu kỳ. Bởi giò có ngon hay không phụ thuộc rất lớn vào
cái… mo cau và lúc cho vào nồi để luộc.
Kết thúc buổi giã giò là bữa ăn “tiết
canh, lòng lợn” không thể thiếu trong mỗi gia đình. Đó là bữa “ăn Tết” đầu tiên
trong chuỗi những ngày Tết. Sau đó, các mẹ các chị gánh gạo nếp, đỗ xanh đi
đãi, mang lá dong ra bờ sông để cọ rửa chuẩn bị cho việc gói bánh chưng.